[Q&A #3] Sửa đổi hợp đồng thuê tài sản

Bạn Toàn Nguyễn có gửi tới AIEC một câu hỏi như sau:

“Bên t thuê một thiết bị điện Năng lượng mặt trời, hợp đồng thuê dài hạn, cuối thời hạn thuê mua lại với giá 1USD. Hợp đồng thuê tài chính, có kế hoạch thanh toán hàng tháng đều đặn, đã ghi nhận tài sản thuê tài chính rồi. Nhưng sang tháng này, không thanh toán theo kế hoạch nữa, mà sẽ dựa theo sản lượng điện mà nhà máy tiêu thụ để thanh toán. Theo ông nên xử lý case này như thế nào?

  1. Vẫn giữ nguyên giá, khấu hao tài sản như bình thường.
  2. Ghi giảm tài sản, giảm 341, không khấu hao nữa. Và chi phí hàng tháng sẽ ghi nhận như là một chi phí dịch vụ điện thông thường”

Đây là một ví dụ của trường hợp sửa đổi hợp đồng thuê tài sản, đặc biệt là hợp đồng thuê tài chính. Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp hợp đồng thuê bị sửa đổi so với điều khoản ban đầu. Vậy việc kế toán trong tình huống này được thực hiện như thế nào?

Khi mà Việt Nam chưa có quy định liên quan để xử lý cho tình huống này, chúng ta có thể tham chiếu sang chuẩn mực quốc tế tương ứng về thuê tài sản là IFRS 16.

Theo quy định của IFRS 16, doanh nghiệp đi thuê tài sản sẽ ghi nhận tài sản quyền sử dụng và nợ thuê tài sản phải trả, tương tự như quy định về hạch toán tài sản thuê tài chính tại Việt Nam.

Tuy nhiên, một số khoản thanh toán tiền thuê biến đổi không đủ điều kiện ghi nhận tài sản và nợ phải trả theo quy định của chuẩn mực này:

“27. Vào ngày bắt đầu thời hạn thuê, khoản phải trả tiền thuê nằm trong giá trị khoản nợ phải trả về thuê tài sản để có được quyền sử dụng tài sản cơ sở trong thời hạn thuê, bao gồm các khoản thanh toán mà chưa được trả dưới đây:

(a) khoản thanh toán cố định (bao gồm khoản thanh toán cố định có bản chất được quy định tại đoạn B42), trừ đi khoản phải thu từ ưu đãi thuê tài sản;

(b) khoản thanh toán tiền thuê biến đổi phụ thuộc vào chỉ số hoặc lãi suất, được xác định giá trị ban đầu theo chỉ số hoặc lãi suất tại ngày bắt đầu thời hạn thuê (được quy định tại đoạn 28);

(c) giá trị dự kiến bên đi thuê phải trả theo giá trị còn lại của tài sản thuê được đảm bảo;

(d) giá thực hiện của quyền chọn mua nếu bên đi thuê chắc chắn sẽ thực hiện quyền chọn đó (được đánh giá trên cơ sở xem xét các yếu tố quy định tại đoạn B37–B40); và

(e) các khoản phải trả tiền phạt do chấm dứt hợp đồng thuê tài sản nếu điều khoản thuê quy định về việc bên đi thuê được thực hiện quyền chọn chấm dứt hợp đồng thuê.”

Như vậy, theo quy định của IFRS 16 thì chỉ những khoản thanh toán tiền thuê biến đổi mà giá trị thanh toán phụ thuộc vào chỉ số hoặc lãi suất mới được ghi nhận ban đầu là nợ phải trả về thuê tài sản. Các khoản thanh toán tiền thuê biến đổi khác, ví dụ tiền thuê phụ thuộc vào mức độ sử dụng tài sản của bên đi thuê sẽ được ghi nhận khi phát sinh (khi doanh nghiệp thực tế sử dụng tài sản và phát sinh nghĩa vụ phải trả).

Lý do cho quy định này là bởi vì, khi mà tiền thuê thanh toán phụ thuộc hoàn toàn vào mức độ sử dụng tài sản của bên đi thuê, lúc này bên đi thuê không có nghĩa vụ phải thanh toán cho bên cho thuê tài sản khi mà bên đi thuê không sử dụng tài sản này và do vậy, bên đi thuê không hề phát sinh nghĩa vụ nợ phải trả đối với bên cho thuê tài sản. Nghĩa vụ nợ chỉ phát sinh khi bên đi thuê thực tế sử dụng tài sản.

Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, hoặc trong tình huống này là tại thời điểm sửa đổi hợp đồng thuê tài sản, bên đi thuê đã thay đổi nghĩa vụ thanh toán từ khoản thanh toán cố định sang khoản thanh toán biến đổi và do vậy, bên đi thuê chưa có nghĩa vụ phải trả tại ngày này liên quan tới việc sử dụng tài sản thuê trong tương lai mà các chi phí này sẽ được ghi nhận theo thực tế phát sinh, dựa trên mức độ sử dụng tài sản của bên đi thuê.

Như vậy, với những phân tích trên thì cách xử lý số 2 sẽ là phương án phù hợp hơn.

Cách xử lý này cũng phù hợp với định nghĩa về tài sản và nợ phải trả của chuẩn mực kế toán Việt Nam.

Chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của nợ phải trả về thuê tài sản và giá trị còn lại của tài sản thuê tài chính được ghi nhận vào thu nhập khác hoặc chi phí khác trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.

Một lưu ý là các phân tích ở trên chỉ áp dụng trong trường hợp khoản thanh toán hoàn toàn căn cứ vào mức độ sử dụng tài sản của bên đi thuê. Trong trường hợp hợp đồng quy định một khoản thanh toán tối thiểu hàng tháng thì khoản thanh toán này thỏa mãn là một khoản thanh toán cố định theo quy định tại đoạn 27a và được ghi nhận là nợ phải trả trên báo cáo tài chính của bên đi thuê.

Cách kế toán cho trường hợp này sẽ tuân thủ quy định của IFRS 16 về các khoản sửa đổi hợp đồng thuê tài sản. Quý vị có thể tham khảo thêm tại bài viết dưới đây:

Một số khóa học nổi bật

Subscribe
Notify of
guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
View all comments